Cùng ký tên chuyển nhượng đất nhưng chồng lấy hết tiền tiêu riêng thì có phạm tội chiếm đoạt tài sản?

Cùng ký tên chuyển nhượng đất nhưng chồng lấy hết tiền tiêu riêng thì có phạm tội chiếm đoạt tài sản?

34

Chị Nguyễn Ngọc Minh K. có câu hỏi:

Chào luật sư! Tháng 06/2020, vợ chồng tôi cùng ký tên chuyển nhượng miếng đất có diện tích 150m2 đứng tên hai vợ chồng ở quê, dự định mở một cửa hàng nhỏ để kinh doanh. Số tiền chuyển nhượng đất do chồng tôi giữ, sau đó ông dùng số tiền này tiêu hết vào cờ bạc. Xin được hỏi rằng chồng tôi có phạm tội chiếm đoạt tài sản không?

 

Trả lời:

Chào bạn, với thông tin bạn cung cấp, Luật Công Bình xin đưa ra một số ý kiến tư vấn như sau:

Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tài sản chung của vợ chồng như sau:

“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

  1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng”.

Theo đó, diện tích đất 150m2 nêu trên được cả hai vợ chồng bạn cùng nhau ký chuyển nhượng có nghĩa đây là tài sản thuộc quyền sử dụng chung của hai người, khi được chuyển nhượng là chuyển nhượng quyền sử dụng đất chung của hai vợ chồng.

Mặt khác, quyền sử dụng đất này được chuyển nhượng trong thời kỳ hôn nhân, vì thế khoản tiền thu được từ giao dịch chuyển quyền sử dụng đất nói trên được xem là khoản thu nhập hợp pháp phát sinh trong thời kỳ hôn nhân và là tài sản chung của vợ chồng.

Thứ hai, đặc điểm tài sản chung của vợ chồng là việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung đó không thể do một trong hai người tự ý quyết định. Khoản 1 Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định rõ: Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận và đi đến quyết định chung. Về khách thể, chồng bạn chiếm đoạt số tiền bán đất là tài sản chung của vợ chồng, tài sản này hai vợ chồng “không có thoả thuận với nhau về việc chia tài sản chung, cũng không có văn bản, quyết định của cơ quan có thẩm quyền về việc phân chia tài sản của vợ chồng.

Như vậy, đây là tài sản chung hợp nhất chưa chia. Theo Điều 217 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Trong số tài sản chồng bạn lấy tiêu riêng có phần của chồng bạn và không chứng minh được tài sản riêng của bạn là bao nhiêu. Vì vậy, xét về mặt tổng thể, hành vi của chồng bạn tuy trái đạo đức xã hội, nhưng không đủ yếu tố cấu thành một trong các tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự 2015.

Tuy nhiên, hành vi của chồng bạn có thể bị phạt hành chính theo điểm b khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về xử lý hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi. Trường hợp còn thắc mắc, vui lòng liên hệ Công ty Luật Công Bình để kịp thời giải đáp.

Trân trọng!

Luật sư Lê Quang Vũ

Biên tập: Thanh Thủy

Công ty Luật TNHH MTV Công Bình

Số 21/2 Đường 14A, phường Tân Thuận Tây, Quận 7, TPHCM

Điện thoại: 08 6622 3939

Email: luatcongbinh@luatcongbinh.vn

 

 

 

 

 

Tác giả

Viết bình luận

<