Tranh chấp lối đi chung là một vấn đề phổ biến và rất phức tạp vì ngoài tính pháp lý, nó còn liên quan đến tình nghĩa xóm làng. Tuy nhiên, khi có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của mình thì việc tranh chấp, kiện tụng là không thể tránh khỏi.
Quyền về lối đi qua
Khoản 1 Điều 254 Bộ luật dân sự 2015 quy định quyền về lối đi qua như sau:
“Điều 254. Quyền về lối đi qua
- Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.
Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.”
Có thể thấy, quyền về lối đi qua là quyền quy định cho chủ sở hữu có bất động sản không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng. Vì vậy, chủ sở hữu của một trong những bất động sản lân cận phải có nghĩa vụ tạo lối đi cho chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc.
Thỏa thuận về mở lối đi chung
Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên tự thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và hạn chế ảnh hưởng đến các bên khác. Nếu phát sinh tranh chấp thì có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định.
Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho nhiều chủ sở hữu, chủ sử dụng thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định mà không có đền bù.
Ngoài ra, Điều 171 Luật Đất đai 2013 cũng có quy định về hạn chế quyền sử dụng hạn chế đối với quyền về lối đi. Do đó, để đảm bảo tốt nhất về quyền đối với lối đi, chủ sở hữu bất động sản nên thỏa thuận với chủ sở hữu bất động sản có lối đi về việc đăng ký quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề.
Hướng giải quyết tranh chấp
Nhà nước khuyến khích các bên tự hòa giải hoặc hòa giải ở cơ sở. Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/ NQ-HĐTP thì các tranh chấp mà các bên không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
Tại Điều 203 Luật Đất đai 2013 quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai được xác định như sau:
- Nếu lối đi này được công nhận trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có thể khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để giải quyết, đóng tiền án phí và xử lý theo quy định.
- Nếu lối đi này không được công nhận trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có thể lựa chọn giải quyết một trong hai cơ quan: UBND cấp có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra tòa án.
Trong trường có đơn xin hợp lựa chọn giải quyết tại UBND cấp có thẩm quyền thì:
- Chủ tịch UBND cấp huyện chính là người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh chính là người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
Trong trường hợp một bên muốn hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bên còn lại thì có thể khởi kiện vụ án dân sự hoặc khởi kiện vụ án hành chính. Lúc này, Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Trên đây là nội dung bài viết của Luật Công Bình về vấn đề tranh chấp lối đi chung. Trường hợp Quý khách hàng có nội dung nào nhầm lẫn hoặc thắc mắc cần giải đáp, vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi.
Xin cảm ơn!